Menu Close

(3.28) Một số danh mục về khả năng hội đủ điều kiện nhận giáo dục đặc biệt yêu cầu tình trạng hoặc khuyết tật của học sinh phải “gây ảnh hưởng bất lợi đến năng lực học tập”. Cụm từ trên nghĩa là gì?

(3.28) Một số danh mục về khả năng hội đủ điều kiện nhận giáo dục đặc biệt yêu cầu tình trạng hoặc khuyết tật của học sinh phải “gây ảnh hưởng bất lợi đến năng lực học tập”. Cụm từ trên nghĩa là gì?

Cả luật pháp liên bang hoặc tiểu bang đều không định nghĩa thuật ngữ “gây ảnh hưởng bất lợi đến năng lực học tập”. Do đó, quý vị cần xem lại các trường hợp của tòa án giải thích về cụm từ này để hiểu được cách áp dụng. Tòa án đã giải thích nghĩa của cụm từ này như sau: giáo dục sẽ bị ảnh hưởng bất lợi nếu, không có một số dịch vụ, tình trạng bản thân có thể ngăn trẻ thực hiện các nhiệm vụ về học thuật và phi học thuật và/hoặc ngăn trẻ được giáo dục với các bạn đồng lứa không bị khuyết tật. [Yankton School District v. Schramm, 93 F.3d 1369 (8th Cir. 1996).]

Ví dụ: với trẻ bị khiếm khuyết hình thể, Tòa Án tại Schramm đã xác định nhiều dịch vụ (trợ giúp việc di chuyển giữa các lớp học, lên xuống xe buýt, lên xuống cầu thang, bê khay ăn trưa, sắp xếp kèn saxophon của trẻ cho ban nhạc, bộ sách bổ sung ở nhà và ở trường để không cần phải mang đi mang về, bài tập viết ngắn hơn, hướng dẫn cách gõ bằng một tay, bản sao ghi chú của giáo viên và máy tính ở một số lớp học) mà nếu không được cung cấp sẽ khiến khiếm khuyết hình thể gây ảnh hưởng bất lợi đến năng lực học tập. Tòa Án đã phát hiện điều này là đúng vì nếu không có những dịch vụ này, học sinh sẽ gặp khó khăn trong ghi chú, hoàn thành bài tập, đến lớp đúng giờ và mang sách đến lớp. Tòa án tương tự nhận thấy rằng vì học sinh có ý định học đại học, nếu không có những dịch vụ này cũng như dịch vụ chuyển tiếp giáo dục đặc biệt (học lái xe, tự biện hộ và các kỹ năng sống độc lập) thì sẽ khiến khiếm khuyết hình thể gây ảnh hưởng bất lợi đến mục tiêu của học sinh về giáo dục sau trung học.

Tại California, cơ quan điều trần hành chính đã nhận thấy điểm kém là một chỉ số quan trọng của việc ảnh hưởng bất lợi đến năng lực học tập. [Lodi Unified Sch. Dist., SN 371-00; Capistrano Unified Sch. Dist., SN 686-99, 33 IDELR 51; Ventura Unified Sch. Dist., SN 1943-99A; Murrieta Valley Unified Sch. Dist., SN 180-95, 23 IDELR 997.] Cơ quan điều trần cũng phát hiện ra rằng một tình trạng khuyết tật sẽ gây ảnh hưởng bất lợi đến năng lực học tập nếu tình trạng đó khiến học sinh kém chuyên cần. [Sequoia Union High School District, SN 1092-95.] Điểm kém và tụt lùi trong học tập cũng là ví dụ về ảnh hưởng bất lợi đến năng lực học tập. [Enterprise Elem. Sch. Dist., SN 1055-89.] Ngoài ra, tình trạng của học sinh, còn gây giảm điểm số và hạnh kiểm ở trường học, dẫn đến ảnh hưởng bất lợi đến năng lực học tập.  [Sierra Sands Unified Sch. Dist., SN 1367-97, 30 IDELR 306.]

Nhiều trường đánh giá xem tình trạng của trẻ có ảnh hưởng bất lợi đến năng lực học tập của chính trẻ hay không hoàn toàn dựa trên điểm số hoặc điểm bài kiểm tra chuẩn hóa của trẻ. Mặc dù điểm số và, có lẽ, điểm bài kiểm tra chuẩn hóa có thể là thước đo về năng lực học tập, nhưng luật pháp và tòa án xem xét rộng hơn.  Khi xác định liệu năng lực học tập có bị ảnh hưởng bất lợi bởi tình trạng cảm xúc của trẻ hay không, tòa phúc thẩm liên bang chi phối California yêu cầu cân nhắc đến nhu cầu của học sinh về việc phát triển hành vi và cảm xúc. [County of San Diego v. California Special Education Hearing Office, et al., 93 F.3d 1458, 1467 (9th Cir. 1996).] Mặc dù một số học sinh thực hiện tốt bài kiểm tra chuẩn hóa, nhưng luật pháp không yêu cầu phải có điểm kiểm tra chuẩn hóa kém để tìm ra sự ảnh hưởng bất lợi đến năng lực học tập.  Tòa án đã xác định rằng nhu cầu giáo dục của trẻ bao gồm các nhu cầu học thuật, xã hội, sức khỏe, cảm xúc, giao tiếp, thể chất và nghề nghiệp. [Seattle School Dist. No. 1 v. B.S., 82 F.3d 1493, 1500 (9th Cir. 1996).]

Luật giáo dục đặc biệt của liên bang cũng phân biệt khái niệm năng lực “học tập” và năng lực “học thuật” và xác định rằng năng lực “học tập” là một khái niệm rộng. Ví dụ: trẻ phải được trường học đánh giá ở tất cả các lĩnh vực của khuyết tật bị nghi ngờ. [20 U.S.C. Sec. 1414(b)(3)(B).]  Những lĩnh vực này được xác định theo quy định của liên bang, bao gồm: sức khỏe, thị lực, thính lực, tình trạng xã hội và cảm xúc, trí thông minh nói chung, năng lực học thuật, tình trạng giao tiếp và khả năng vận động. [34 C.F.R. Sec. 300.304(c)(4).] Năng lực học thuật chỉ là một trong những lĩnh vực trẻ cần được đánh giá. Quốc Hội và Cơ Quan Lập Pháp California đáng ra đã dùng thuật ngữ hẹp hơn “năng lực học thuật” khi viết định nghĩa về các tình trạng sẽ giúp trẻ hội đủ điều kiện theo danh mục về khả năng đủ điều kiện như Rối Loạn Cảm Xúc, Khiếm Khuyết Sức Khỏe Khác (Other Health Impaired, OHI), Khiếm Khuyết Hình Thể, Khuyết Tật Trí Tuệ, Khiếm Khuyết về Lời Nói và Ngôn Ngữ, Khiếm Thị, Khiếm Thính, Điếc.  Tuy nhiên, họ không làm vậy. Quốc Hội và Cơ Quan Lập Pháp California đã sử dụng thuật ngữ “năng lực học tập” rộng hơn trong các định nghĩa hội đủ điều kiện này. Ngoài điểm số và điểm bài kiểm tra chuẩn hóa, trường học cần cân nhắc xem tình trạng cảm xúc, sức khỏe và tình trạng khác của trẻ có ảnh hưởng bất lợi đến năng lực phi học thuật ở các lĩnh vực xã hội, hành vi và lĩnh vực khác hay khôn